Những con số trên cho thấy Nhật Bản được coi là thị trường lớn nhất và ưa thích của đa số lao động Việt Nam. Thế nhưng có một thực tế là lao động Việt Nam sang đây đang phải gánh khoản phí quá lớn, cao hơn nhiều lần so với các nước cùng phái cử.
Chi phí cao nhất trong 15 nước phái cử lao động sang Nhật Bản
Tại Diễn đàn giao lưu phát triển nhân lực Việt Nam – Nhật Bản năm 2023 do Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam (VAMAS) và Hiệp hội Thân thiện quốc tế Nhật Bản (JIFA) vừa phối hợp tổ chức, số tiền để nộp và vay nợ trung bình của thực tập sinh Việt Nam khi sang Nhật Bản làm việc là khoảng 120 triệu đồng. Khoản tiền này đang ở ngưỡng cao nhất trong 15 nước phái cử lao động sang Nhật Bản. Mức phí này cao hơn cả Trung Quốc, Campuchia và gấp 4 lần Philippines. Và đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn, vi phạm pháp luật cao.
Trong khi đó, một nghiên cứu gần đây của Tổng cục Thống kê với sự hỗ trợ của ILO còn đưa ra một con số cao hơn nữa. Theo đó, lao động Việt Nam phải trả đến 192 triệu đồng (tương đương 8.000 USD) để được tuyển dụng một công việc đầu tiên của họ ở Nhật Bản. Việc trả phí tuyển dụng cao làm tăng tính dễ bị tổn thương của người lao động khi họ phải trả nợ trong vài tháng và đôi khi là vài năm, thậm chí một số trường hợp bị vướng vào mua bán người.
Tại sao lao động Việt Nam phải gánh khoản phí lớn như thế? Nguyên nhân được các chuyên gia lý giải là do việc không tuân thủ quy định cấm thu tiền thế chấp, tiền bảo lãnh, chi phí cho người môi giới cao. Cùng với đó là một số chi phí khác. Các nguyên nhân này cho thấy, lao động Việt Nam đang phải trả các khoản phí không đúng với các quy định của Luật đưa lao động ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng (sửa đổi) đã có hiệu lực từ ngày 1/1/2022.
Theo quy định của luật thì thực tập sinh kỹ năng, hộ lý, lao động đặc định Việt Nam khi đi làm việc tại Nhật Bản sẽ không phải trả tiền môi giới, tiền ký quỹ, tiền giáo dục định hướng. Người lao động sẽ chỉ phải trả tối đa 1 tháng lương theo hợp đồng cho 1 năm làm việc, tối đa không quá 3 tháng lương và được trừ đi phần phí quản lý, phí dịch vụ do bên tiếp nhận chi trả. Đối với tiền đào tạo nghề, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu của phía Nhật Bản, người lao động chỉ chi trả một phần theo quy định, đối với lao động đặc định thì bên tiếp nhận hỗ trợ toàn bộ.
“Thời gian vừa qua, các cơ quan chức năng hai nước đã tích cực phối hợp thực hiện các giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh đối với chương trình phái cử thực tập sinh kỹ năng, lao động đặc định Việt Nam sang Nhật Bản. Để giảm chi phí cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài, Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) đã bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm như: Lợi dụng hoạt động chuẩn bị nguồn, tuyển chọn lao động đi làm việc ở nước ngoài để thu tiền của người lao động trái pháp luật; thu tiền môi giới; thu tiền dịch vụ không đúng quy định của luật…
Do đó, để giảm chi phí cho người lao động trước hết cần sự chủ động, tích cực của các doanh nghiệp, nghiệp đoàn, sau đó cần cơ chế giám sát với sự tham gia của cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam, hiệp hội, cơ quan quản lý lao động địa phương, cũng như các bộ, ngành, tổ chức có liên quan từ phía Nhật Bản, làm sao để thực hiện việc tuyển chọn công bằng, công khai, minh bạch, nhằm giảm chi phí cho người lao động, thực tập sinh”, ông Phạm Viết Hương, Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước cho hay.
Phụ thuộc rất nhiều phía đối tác Nhật Bản
Để thực hiện hóa giấc mơ không phải vay nợ cho thực tập sinh đến Nhật Bản, JIFA đã liên kết với Tổ chức đào tạo nguồn nhân lực Việt Nhật thực hiện thí điểm dự án Phí 0 đồng ở Hà Tĩnh từ năm 2014. Đến nay dự án này đã hỗ trợ cho khoảng 600 thực tập sinh có hoàn cảnh khó khăn tại Hà Tĩnh. Đây có thể là hình mẫu trong việc hỗ trợ lao động sang Nhật Bản làm việc, giảm bớt khó khăn cho lao động Việt Nam. Tuy vậy, có thể nhân rộng được thì không hề đơn giản.
Đứng ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Văn Hoàng, Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu và Cung ứng nhân lực Hoàng Hải cho biết, câu chuyện giảm chi phí cho người lao động phụ thuộc rất lớn vào đối tác Nhật Bản.
“Dự án Phí 0 đồng đó triển khai được là do phía Nhật Bản đứng ra đặt hàng, hỗ trợ. Tôi cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam sẵn sàng tham gia các dự án, chương trình giảm phí, hoặc không thu phí của người lao động. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là phía đối tác Nhật Bản có chịu chi trả các chi phí như đào tạo, hỗ trợ, quản lý người lao động hay không là vấn đề lớn. Điều này cần Chính phủ Nhật ban hành chính sách đồng bộ, áp dụng cho toàn bộ lao động nước ngoài. Còn nếu chỉ áp dụng với Việt Nam, các doanh nghiệp Nhật sẽ chạy sang Indonesia, Myanmar… để tuyển lao động, vì chi phí rẻ hơn. Lúc đó, Việt Nam lại rất khó cạnh tranh ở thị trường lớn nhất này. Câu chuyện giảm chi phí trước lúc đi chỉ là một vấn đề, ngoài ra cần tính đến các điều kiện làm việc của người lao động, chế độ đãi ngộ như thu nhập, các phúc lợi khác ở nước ngoài”, ông Hoàng phân tích.
Chủ tịch Hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam Doãn Mậu Diệp cũng cho rằng, câu chuyện để giảm chi phí cho lao động phụ thuộc rất lớn vào phía đối tác Nhật Bản. Theo ông Diệp, đối với doanh nghiệp tuyển dụng, xuất khẩu lao động có tồn tại được hay không cũng là nhờ phí dịch vụ. Phí dịch vụ để đảm bảo bù đắp các chi phí từ khai thác hợp đồng, tuyển dụng lao động, quản lý hỗ trợ lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài.
“Chi phí đi Nhật Bản hiện rất cao, cao hơn Trung Quốc, và cao hơn rất nhiều lần so với Indonesia, Philippines và vấn đề này cần được cải thiện. Các đơn vị tuyển dụng, doanh nghiệp, cơ quan chức năng cùng vào cuộc, nỗ lực của các bên để người lao động không phải chịu sự thiệt thòi trong mức phí quá cao. Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng nữa cũng phải được giải quyết là cần sự thảo luận của phía Nhật Bản. Một số khoản phí đáng lẽ ra người sử dụng lao động phải trả nhưng lại đẩy về phía người lao động. Do đó, cần phải thảo luận với phía Nhật Bản về việc bao nhiêu doanh nghiệp chấp nhận giảm phí hoặc không thu phí đối với lao động Việt Nam và mức lương của lao động đi theo dạng không thu phí hoặc có phí sẽ được cân đối như thế nào”, ông Diệp nói.